Hình phạt tù dành cho các bị cáo trộm cắp tài sản

31/08/2023
Ngày 30/8/2023, Tòa án nhân dân huyện Krông Pa đã đưa ra xét xử công khai trực tiếp đối với các bị cáo Ksor Đ, sinh ngày 26/12/2003 (trú tại: Tập đoàn 4+5, xã Chư Gu, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai); Ksor N, sinh ngày 2000 (trú tại: Buôn Jú, xã Krông Năng, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) và R’Ô Q, sinh ngày 1996 (trú tại: Buôn Ia Klon, xã Ia Rmok, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
c7f1f66617dcc5829ccd.jpg
HÌnh ảnh: các bị cáo đứng trước Phiên tòa xét xử
Theo cáo trạng, vào khoảng 23 giờ ngày 16/10/2022, lợi dụng thời điểm đêm tối, cùng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ quản lý tài sản, Ksor Đ và R’Ô Q đã lén lút trộm cắp hai chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO của ông Rah Lan R có tổng giá trị là 4.500.000 đồng. Tiếp tục đến khoảng 22 giờ ngày 19/12/2022, Kbôr Y rủ rê Ksor Đ và Ksor N trộm cắp xe mô tô và được các bị cáo đồng ý, các bị cáo đã lén lút, bí mật thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô của ông Ksor S có giá trị là 9.000.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản Ksor Đ, Ksor N và R’Ô Q trực tiếp lén lút, bí mật trộm cắp tài sản của các bị hại trị giá 13.500.000 đồng với động cơ, mục đích tư lợi cá nhân bán lấy tiền tiêu xài, đã xâm phạm vào quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân là đã phạm vào tội trộm cắp tài sản. Hành vi phạm tội của các bị cáo rõ ràng là có lỗi và sai trái với đường lối, chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta, nay phải chịu trách nhiệm hình sự và hậu quả pháp lý đã gây ra là có căn cứ pháp lý.
Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung của bản cáo trạng, lời khai của bị hại và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Đối với Kbôr Y, sinh ngày 04/4/2007, tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội Kbôr Y chưa đủ 16 tuổi, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, hành vi của Kbôr Y đã vi phạm điểm a khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình nên Trưởng Công an huyện ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với Kbôr Y bằng hình thức Cảnh cáo.
Đối với các cá nhân nhận cầm cắm điện thoại di động và nhận giữ xe mô tô do Ksor Đ cùng đồng phạm chiếm đoạt, các cá nhân này không biết rõ tài sản do phạm tội mà có nên hành vi của họ không phạm tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, hành vi nhận cầm cắm tài sản mà không có giấy phép kinh doanh đã phạm vào điểm a khoản 3 Điều 6 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trưởng Công an huyện ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với mức tiền phạt là 12.500.000 đồng.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đặc điểm nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, hành vi phạm tội, vai trò, hoàn cảnh của các bị cáo và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Ksor Đ hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; R’Ô Q hình phạt 09 (chín) tháng tù và Ksor N hình phạt 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 14 tháng.
Bản án được tuyên là hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ đến các bậc phụ huynh trong việc quản lý, giáo dục con em mình trước những cạm bẫy của xã hội ngay cả khi các em còn nhỏ tuổi; Đây cũng là bài học cho những ai lười lao động nhưng muốn hưởng thụ, muốn có tiền tiêu xài, chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ phải chịu hình phạt nghiêm khắc của pháp luật.
ĐINH HẢI BIỂN